Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

Hình ảnh: CUỘC SỐNG LÀ NHỮNG VA ĐẬP

Hãy nghe một viên sỏi kể về nguồn gốc của mình: 

“Tôi vốn là một tảng đá khổng lồ trên núi cao, trải qua bao năm tháng dài đăng đẳng bị mặt trời nung đốt, người tôi đầy vết nứt. Tôi vỡ ra và lăn xuống núi, mưa bão và nước lũ cuốn tôi vào sông suối. 

Do liên tục bị va đập, lăn lộn, tôi bị thương đầy mình. Nhưng rồi chính những dòng nước lại làm lành những vết thương của tôi. Và tôi trở thành một hòn sỏi láng mịn như bây giờ”.

Bạn nghĩ gì khi nghe câu chuyện trên? Cảm thấy lý thú với chuyến đi của hòn sỏi hay xúc động trước ánh mắt lạc quan của nó đối với cuộc đời đầy biến động? Đã bao giờ bạn thấy được rằng chính những chông gai mới tạo nên những hình hài đẹp và ấn tượng, dù là hình hài được tạo bởi chính những vết thương và sự đớn đau? 

Có thể là bạn, có thể là tôi, cuộc sống chẳng bao giờ chỉ mang đến nỗi đau, cũng chẳng bao giờ chỉ mang đến niềm hạnh phúc. Vượt qua được gian khổ, vượt qua những cuộc thử thách, vượt qua được những nỗi đau là bạn đã tự làm hoàn thiện chân dung mình. 

Cuộc sống là vô vàn những điều biến động. Vì vậy, cho dù trong khó khăn hay trong hạnh phúc, cũng mong bạn luôn nhớ cuộc hành trình của hòn sỏi để sống tự tin hơn, để mang những yêu thương xoa dịu và làm lành những vết thương. Sự va đập của cuộc sống chẳng có gì đáng sợ đâu bạn ạ!Hãy nghe một viên sỏi kể về nguồn gốc của mình: 

“Tôi vốn là một tảng đá khổng lồ trên núi cao, trải qua bao năm tháng dài đăng đẳng bị mặt trời nung đốt, người tôi đầy vết nứt. Tôi vỡ ra và lăn xuống núi, mưa bão và nước lũ cuốn tôi vào sông suối.

Do liên tục bị va đập, lăn lộn, tôi bị thương đầy mình. Nhưng rồi chính những dòng nước lại làm lành những vết thương của tôi. Và tôi trở thành một hòn sỏi láng mịn như bây giờ”.

Bạn nghĩ gì khi nghe câu chuyện trên? Cảm thấy lý thú với chuyến đi của hòn sỏi hay xúc động trước ánh mắt lạc quan của nó đối với cuộc đời đầy biến động? Đã bao giờ bạn thấy được rằng chính những chông gai mới tạo nên những hình hài đẹp và ấn tượng, dù là hình hài được tạo bởi chính những vết thương và sự đớn đau?

Có thể là bạn, có thể là tôi, cuộc sống chẳng bao giờ chỉ mang đến nỗi đau, cũng chẳng bao giờ chỉ mang đến niềm hạnh phúc. Vượt qua được gian khổ, vượt qua những cuộc thử thách, vượt qua được những nỗi đau là bạn đã tự làm hoàn thiện chân dung mình.

Cuộc sống là vô vàn những điều biến động. Vì vậy, cho dù trong khó khăn hay trong hạnh phúc, cũng mong bạn luôn nhớ cuộc hành trình của hòn sỏi để sống tự tin hơn, để mang những yêu thương xoa dịu và làm lành những vết thương. Sự va đập của cuộc sống chẳng có gì đáng sợ đâu bạn ạ!
Lời đầu sách: 
Tích phúc cải mệnh là sách ghi lại lời gia huấn của Viên Liễu Phàm đời Minh Trung Quốc, mục đích ông dạy cho con trai Viên Thiên Khải biết được chân tướng vận mệnh, phân biệt tiêu chuẩn thiện ác, nắm vững phương pháp cải ác làm lành cho đến những ứng nghiệm của việc hành thiện, tích đức, khiêm tốn... Câu chuyện này đều là người thật việc thật, và đạo lý nói đến được nghiệm chứng bằng chính kinh nghiệm cải đổi vận mệnh của tác giả Viên Liễu Phàm. Đây thật là một quyển sách quý, có ích cho thế đạo nhân tâm, chuyển hóa lòng người,xây dựng xã hội an lạc.
   Hy vọng rằng những ai được đọc, được nghe sẽ học theo tinh thần tích phúc cải mệnh của Liễu Phàm tiên sinh, cải đổi những điều không tốt và sáng tạo một tương lai tươi sáng cho mình, cho đất nước cũng như toàn thể nhân loại.
 Chương một:  Môn học lập mệnh
Lập mệnh chính là sáng tạo ra vận mệnh, không bị vận mệnh trói buộc. Chương" Lập mệnh" này chính là bàn đến cái học lập mệnh, giảng giải đạo lý an thân. Viên Liễu Phàm tiên sinh đã đem kinh nghiệm bản thân cùng nhiều nghiệm chứng trong việc cải đổi vận mệnh để dạy cho con trai. Ông muốn con trai mình là Viên Thiên Khải không nên bó tay trước vận mệnh mà phải gắng hết sức cải đổi vận mệnh bằng cách hành thiện, đoạn ác, như người xưa nói: " Đừng chê điều thiện nhỏ mà không làm, đừng khinh điều ác nhỏ mà làm". Nếu làm được như vậy, nhất định sẽ cải đổi vận mệnh:" Đoạn ác tu thiện, dứt trừ tai ương, phúc thọ miên trường". Đây chính là nguyên lý cải đổi vận mệnh.
  Cha thưở nhỏ mất cha sớm. Bà nội bảo cha bỏ học, không nên đi thi theo đuổi công danh mà đổi học ngành y làm thầy trị bệnh. Bà nội bảo:
-Học nghề thuốc vừa có thể kiếm tiền nuôi thân vừa có thể cứu giúp người khác. Nếu y thuật đến mức cao minh cũng có thể trở thành y sư danh tiếng. Đây chính là tâm nguyện của cha con khi còn sinh tiền.
   Về sau, cha ở chùa Từ Vân tình cờ gặp được một ông lão tướng mạo phi phàm, râu dài phấp phới, có vẻ tiên phong đạo cốt. Cha cung kính vái chào. Ông lão bảo:
  - Ông là người trong chốn quan trường năm sau có thể đi thi, bước vào hàng tri thức, thế tại sao không chiụ đi học?
  Cha trả lời vì ý của bà nội muốn cha bỏ học khoa cử để theo đuổi ngành y. Kế đó cha lại hỏi tính danh, nơi cư trú của cụ, cụ đáp:
- Ta họ Khổng, người Vân Nam, được chân truyền của Triệu Khương Tiết tiên sinh, người tinh thông về dịch số Hoàng Cực. Tính theo số định, ta phải truyền môn dịch số này cho ông.
 Do đó, cha đưa vị tiên sinh này về nhà, thưa lại mọi việc với bà nội. Bà nội bảo cha phải tiếp đãi cụ chu đáo. Lại còn dạy rằng:
- Vị tiên sinh này tinh thông dịch số vận mệnh. Vậy con thử nhờ cụ tính cho một quẻ xem sao. Thử coi có linh nghiệm hay không?
 Kết quả thật không ngờ, những việc trước đây, dù việc nhỏ, Khổng tiên sinh cũng nói vô cùng chính xác. Cha nghe theo lời cụ, có ý định đi học lại nên bàn với người anh họ tên là Thẩm Xưng. Anh họ bảo:
- Tôi có một người bạn thân tên là Úc Hải Cốc mở lớp dạy học ở nhà Úc Hữu Phu. Tôi đưa cậu đến đó ở trọ, theo học, rất tiện.
  Từ đó cha bắt đầu theo tiên sinh Úc Hải Cốc học tập. Một lần, Khổng tiên sinh tính số cho cha, bảo:
- Lúc ông chưa có công danh, còn là học sinh, thi Huyện đứng hạng thứ mười bốn, thi Phủ đứng hạng bảy mươi mốt, thi đề học đứng hạng chín.
 Đến năm sau, cha đi thi ba nơi, thứ hạng đúng như lời Khổng tiên sinh nói. Khổng tiên sinh lại tính cho cha một quẻ kiết hung họa phúc suốt đời. Cụ bảo:
- Ông vào năm nào đó sẽ thi đậu hạng mấy, vào năm nào đó sẽ bổ chức Lẫm sinh, Vào năm nào đó lên chức Cống sinh, và năm nào đó được chọn làm Huyện trưởng một huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Làm chức Huyện trưởng được ba năm rưỡi thì từ quan về quê. Năm ông năm mươi ba tuổi, vào giờ sửu ngày mười bón tháng năm, ông sẽ từ trần tại nhà. Tiếc rằng số của ông không có con trai.
 Những lời này cha đều ghi lại và nhớ kỹ trong lòng. Từ đó về sau, mỗi khi thi cử, thứ hạng đều đúng như lời Khổng tiên sinh đã đoán. Chỉ có điều cụ đoán số thóc mà cha lĩnh khi làm chức Lẫm sinh là chín mươi mốt thạch năm đấu, sau đó mới thăng chức. Không ngờ khi mới nhận được bảy mươi mốt thạch thóc, quan Học đài là Đồ tông sư phê chuẩn cha được bổ chức Cống sinh. Cha nghĩ thầm trong bụng:" Khổng tiên sinh đoán số cũng có chỗ không linh nghiệm".
 Không ngờ sau đó giấy phê chuẩn thăng chức của cha bị quan Học đài thay thế là Dương tông sư bác bỏ, không cho làm chức Cống sinh. Mãi đến năm Đinh Mão, Ân Thu Minh tông sư xem bài dự thi tuyển của cha thấy không được chấm đậu nên lấy làm tiếc, than rằng:
- Năm bài văn làm trong quyển này khác nào tấu điệp dâng lên cho vua. Người có học thức như thế này lẽ nào lại để cho mai một đến già?
 Do đó, ông dặn quan huyện đưa hồ sơ của cha lên cho ông, phê chuẩn cha bổ chức Cống sinh. Trải qua sự trắc trở này, cha hưởng thêm một số thóc của chức Lẫm sinh, cộng với bảy mươi mốt  thạch thóc đã ăn khi trước, vừa đúng chín mươi mốt thạch năm đấu. Sau khi xảy ra sự việc này, cha càng tin tưởng: Công danh tiến thoái thăng trầm của một đời người đều do số mệnh định sẵn. Sự thành đạt đến sớm hay muộn đều có thời gian nhất định. Do đó, cha buông trôi, an phận, không có lòng tranh cầu gì nữa.
 Khi được tuyển làm chức Cống sinh, theo quy định phải đến trường Quốc Tử Giám ở Bắc Kinh để học. Cha ở kinh thành một năm, suốt ngày ngồi yên, không nói chuyện, cũng không suy nghĩ, tính toán. Tất cả sách vở đều không xem đến. Đến năm Kỷ Tỵ, cha trở về học ở trường Quốc Tử Giám tại Nam Kinh, tranh thủ thời gian trước khi nhập học đến núi Thê Hà bái kiến thiền sư Vân Cốc. Ngài là một vị cao tăng đắc đạo.
  Cha ngồi đối diện với thiền sư trong một gian thiền phòng suốt ba ngày ba đêm, không hề chợp mắt. Vân Cốc thiền sư hỏi:
- Người ta sở dĩ không thể trở nên thánh nhân chỉ vì vọng niệm trong tâm khởi lên không ngừng. Ông tĩnh tọa ba ngày, ta chưa từng thấy ông khởi lên một niệm vọng tưởng, đó là vì sao?
 Cha đáp:
- Số mệnh của tôi đã được Khổng tiên sinh xem rõ rồi.Lúc nào sinh, lúc nào chết, lúc nào đắc ý, lúc nào thất ý đều có số định sẵn, không có gì thay đổi được. Vậy cho dù có nghĩ tưởng mong cầu cái gì đi nữa cũng vô ích, do đó trong tâm cũng không có vọng niệm.
 Vân Cốc thiền sư cười bảo:
- Ta vốn cho rằng ông là bậc trượng phu xuất chúng, nào ngờ chỉ là kẻ phàm phu tục tử tầm thường!
  Cha nghe xong không hiểu,bèn thỉnh giáo tại sao lại như thế. Vân Cốc thiền sư bảo:
- Một người bình thường không sao tránh khỏi tâm ý thức vọng tưởng xáo trộn. Đã có tâm vọng tưởng không dừng thì phải bị âm dương khí số trói buộc. Đã bị âm dương khí số trói buộc, sao có thể bảo là không có số mệnh được? Tuy nói rằng có số, song chỉ người bình thường mới bị số mệnh trói buộc.Nếu là một người cực thiện thì số mệnh không sao ảnh hưởng được đến họ. Bởi vì người cực thiện, cho dù số mệnh vốn có chủ định phải chịu khổ sở, nhưng nhờ làm được điều thiện cực lớn, sức mạnh của việc thiện lớn, sức mạnh của việc thiện lớn này có thể chuyển khổ thành vui, nghèo hèn đoản mệnh thành phú quý trường thọ.
 Còn người cực ác, số mệnh cũng không ảnh hưởng được họ. Vì cho dù số mệnh họ chủ định được hưởng phúc, song vì họ gây tạo việc ác lớn, chính sức mạnh của việc ác này khiến phúc trở thành họa, giàu sang trường thọ trở nên nghèo hèn chết yểu.
  Số mệnh của ông trong hai mươi năm được Khổng tiên sinh đoán trước, không từng biết cải đổi một chút, trái lại còn bị số mệnh buộc chặt. Một người bị số mệnh buộc chặt chính là phàm phu tục tử. Vậy ông không phải là kẻ phàm phu tục tử hay sao?
 Cha hỏi Vân Cốc thiền sư rằng:
- Theo như thiền sư nói thì số mệnh có thể cải đổi được chăng?
 Thiền sư trả lời:
- Mệnh do tự mình tạo, phúc do chính mình tìm. Ta làm ác tự nhiên bị tổn phúc. Ta tu thiện tự nhiên được phúc báo. sách vở mà cổ nhân để lại xưa nay đã chứng minh tính chính xác của đạo lý này. Trong kinh Phật nói:" Muốn cầu phú quý được phú quý, muốn cầu con trai con gái được con trai con gái, muốn cầu trường thọ được trường thọ. Chỉ cần tu tạo việc lành thì số mệnh không sao trói buộc được chúng ta". Nói vọng ngữ là đại giới của nhà Phật, chẳng lẽ Phật và Bồ tát lại lừa dối chúng ta sao.
 Cha nghe xong trong lòng vẫn còn chưa rõ, mới hỏi thêm rằng:
- Mạnh tử từng nói:" Hễ cầu là được" là chỉ những gì ở trong lòng có thể làm được. Nếu không phải là những gì ở trong lòng thì làm sao có thể nhất định cầu được? Ví như nói đạo đức nhân nghĩa, toàn là những thứ ở trong tâm chúng ta, ta lập chí làm một người nhân nghĩa đạo đức thì tự nhiên trở thành người nhân nghĩa đạo đức. Đây là cái mà ta có thể tận lực để cầu. Còn như công danh phú quý là cái không ở trong tâm, vốn ngoài thân chúng ta, nếu người khác chịu cho, ta mới có thể có được. Còn như người ta không chịu cho, ta không cách nào có được, vậy ta làm sao có thể cầu?
 Vân Cốc thiền sư bảo:
- Lời nói của Mạnh Tử không sai, song ông giải thích lại sai. Ông không thấy Lục Tổ Huệ Năng nói sao:" Tất cả các loại phúc điền đều quyết định trong tâm chúng ta. Phúc không lìa tâm, ngoài tâm không có phúc để cầu". Cho nên trồng phúc hay gieo họa đều do nơi tâm chúng ta. Chỉ cần từ tâm mình đi cầu phúc, không có gì mà không cảm ứng ra.
 Nếu biết từ tâm mình mà cầu thì không những cầu được nhân nghĩa đạo đức trong lòng mà công danh phú quý bên ngoài cũng cầu được. Đó gọi là trong ngoài đều được. Nói cách khác, dùng cách gieo trồng ruộng phúc để cầu thì nhân nghĩa, phúc lộc chắc chắn sẽ được.
 Một người số mệnh có công danh phú quý, cho dù không cầu cũng có; còn như số mệnh không có công danh phú quý, cho dù cầu cũng vô ích. Cho nên, chúng ta nếu không biết kiểm điểm xét lại mình, chỉ hướng ngoại tìm cầu công danh phú quý một cách mù quáng thì không chắc chắn có được vì nó còn lệ thuộc vào phúc báo sẵn có của mình. Đó là khế hợp với ý hai câu nói của Mạnh Tử:" Cầu phải có đạo lý, còn được hay không là do số mệnh".
  Phải biết rằng, cho dù chúng ta cầu mà được thì đó cũng chính là phúc báo sẵn có chính chúng ta, mà không phải chỉ do cầu mà có hiệu nghiệm! Cho nên cái gì đáng cầu mới cầu, không nên cầu một cách vô nguyên tắc, không có đạo lý.
  Nếu như phúc báo không có mà khăng khăng muốn cầu thì không những công danh phú quý cầu không được mà còn vì tâm tham cầu quá đáng, không có mức độ, bất chấp thủ đoạn, nên đánh mất cả nhân nghĩa đạo đức trong tâm. Như vậy chẳng phải trong ngoài đều mất cả sao? Vì vậy cầu mà không có đạo lý là vô ích.
 Vân Cốc thiền sư tiếp đó hỏi:
 - Khổng tiên sinh đoán số mệnh cả đời của ông như thế nào?
 Cha thuật lại tường tận những gì Khổng tiên sinh đã tính, vào năm nào thi đậu hạng mấy, năm nào làm quan, bao nhiêu tuổi mất... Vân Cốc thiền sư bảo:
- Ông tự suy xét xem, mình có thể thi đậu được công danh không? Có thể có con trai hay không?
 Cha xét lại những việc làm của mình đã qua, suy nghĩ rất lâu mới trả lời:
- Tôi không có phúc tướng nên biết phúc báo không có bao nhiêu; lại không biết tích công đức, làm việc thiện để vun bồi phúc báo. Lại thêm tôi không biết nhẫn nại, không chịu gánh vác những việc phức tạp, nặng nề. Tôi lại có tính hẹp hòi, nóng nảy, nói năng tùy tiện, ai làm gì sai không thể bao dung. Có lúc tôi còn tự cao tự đại, đem tài năng, tri thức của mình ra lấn lướt người khác. Những biểu hiện trên là tướng bạc phúc, làm sao có thể thi đậu được công danh?
 Sạch sẽ là một đức tính tốt, song nếu quá mức sẽ trở thành tính khí khó chịu. Nên người xưa bảo: Chỗ nào nhiều phân rác, cây cối lại tốt tươi; nơi nào nước quá sạch, tôm cá không thể sống. Tính tôi sạch sẽ quá mức, thành ra mọi người xa lánh. Đây là nguyên nhân thứ nhất tôi không có con trai.
 Vạn vật phải nhờ vào ánh dương quang ấm áp, gió mưa mát mẻ thấm nhuần mới sinh trưởng được. Tính tôi lại nóng nảy giận hờn, không có hòa khí tươi mát làm sao có thể sinh được con trai? Đây là nguyên nhân thứ hai.
  Nhân ái là cội rễ của sự sống. Nếu tâm tàn nhẫn, không có từ bi thì khác nào như trái cây không hạt, làm sao nảy mầm mọc thành cây được? Cho nên người xưa bảo: Tàn nhẫn là gốc của tuyệt tự. Tôi chỉ biết yêu tiếc danh tiết của mình, không chịu hy sinh bản thân để thành toàn cho người khác, không làm điều thiện, tích công đức. Đó là nguyên nhân thứ ba tôi không có con trai.
 Nói nhiều dễ dàng hại đến khí. Tôi lại nhiều lời nên thân thể không được khỏe mạnh, làm sao mà có được con trai? Đây là nguyên nhân thứ tư tôi không có con trai.
 Người ta sống là nhờ tinh, khí, thần. Tôi thích uống rượu. Rượu làm tiêu tán tinh thần. Một người tinh lực không đủ, cho dù sinh con trai cũng không được trường thọ. Đây là nguyên nhân thứ năm tôi không có con trai.
  Người ta ban ngày không nên ngủ, ban đêm không nên thức. Tôi thường ngồi suốt đêm, không chịu ngủ sớm. Đó là không biết bảo dưỡng nguyên khí tinh thần. Đây là nguyên nhân thứ sáu tôi không có con trai. Ngoài ra còn có nhiều sai lầm, không sao nói hết.
  Vân Cốc thiền sư bảo:
- Ông như vậy không những không có được công danh mà nhiều thứ khác cũng không có được. Nên biết có phúc hay không phúc đều do tâm ta tạo. Người có trí tuệ biết rằng đó là tự mình làm, tự mình nhận lấy kết quả. Người không hiểu biết lại đổ thừa cho vận mệnh.
  Ví dụ như trên thế gian có người giàu sang, sản nghiệp ngàn lạng vàng, đó là họ có phúc báo ngàn lạng vàng. Người có sản nghiệp trăm lạng vàng, đó là họ có phúc báo trăm lạng vàng. Còn người nghèo cùng chết đói, đó là họ có quả báo chết đói. Ví dụ như người lành tích đức, trời sẽ cho họ hưởng phần phúc báo tương ứng; kẻ ác tạo tội, trời sẽ bắt họ chịu tai họa tương ứng.
 Trời đây chính là Ta ở tiền kiếp, Ta ngày nay là Ta của tiền kiếp đã kết tinh thành, Ta ngày nay vừa là vật thọ tạo của Ta ngày trước và đồng thời cũng là đấng tạo hóa (Trời) của Ta sau này. Cái mà mọi người quen gọi là số mệnh thực sự chỉ là Nghiệp, tự ta đã tạo ra (tự nghiệp) chứ không phải là một quyền lực nào ngoài mình tạo ra cả. Ta là chủ nghiệp của Ta. Ta chính là người tạo ra số mệnh của Ta và chỉ có Ta mới có thể thay đổi số mệnh của Ta. Tự mình tạo ra thì cũng tự mình thay đổi nó ( nếu muốn).
  Theo nhà Phật, nghiệp quá khứ là nguyên nhân động lực của kiếp sống hiện tại. Nó chỉ huy tất cả. Thành ra con người giống như một bộ máy bị một định mệnh vô hình chi phối (ta thường gọi là" số mệnh"). Động lực chính của sự tạo nghiệp là ý thức. Ý thức có một tác dụng vô cùng mạnh mẽ, nó chi phối tất cả mọi thứ khác, lại có quyền sáng tạo và thay đổi cả một cuộc đời của con người. Trong giai đoạn hiện tại, cá nhân phải gánh chịu tất cả những quả báo của nghiệp quá khứ (túc nghiệp) và nghiệp hiện tại (hiện nghiệp). Nhưng ý thức với sự phụ họa của các thức khác trong giai đoạn sống hiện tại lại cũng có quyền năng tạo nghiệp mới, để làm động lực cho sự phát sinh sinh mệnh sau này. Hạnh phúc hay đau khổ do chính con người tạo ra, không ai có quyền ban phúc giáng họa hoặc thưởng phạt ai cả. Chỉ có nhân quả nghiệp báo là quan tòa công lý vận hành quyết định số mệnh của Ta mà thôi.
   Tiếp theo, Vân Cốc thiền sư mượn cái thấy của người thế tục để khuyên cha tích đức hành thiện:
- Còn việc sinh con trai giống như chúng ta gieo hạt vậy. Nhân tốt sẽ gặt quả tốt, nhân xấu sẽ có quả xấu.Một người tích chứa công đức được một trăm đời thì có con cháu trong một trăm đời gìn giữ phúc báo của họ. Một người tích chứa công đức được mười đời thì có con cháu trong mười đời gìn giữ phúc báo của họ. Tích chứa công đức được hai ba đời thì có con cháu trong hai ba đời gìn giữ phúc báo của họ. Còn người chỉ hưởng phúc trong một đời, đến đời sau lại tuyệt hậu, đó là công đức tích chứa chỉ bấy nhiêu. Song nghiệp tội của người đó có lẽ lại không ít!
  Ông đã tự biết khuyết điểm của mình thì phải hết lòng hết sức cải đổi những tính xấu, biểu hiện bạc phúc khiến không được công danh và không có con trai. Ông nhất định phải làm lành tích đức, đối với người phải hòa khí từ bi, bao dung độ lượng và quý tiếc giữ gìn tinh thần của mình.
   Hãy coi tất cả những việc trước kia như hôm qua đã chết đi; còn những việc về sau như hôm nay mới sinh ra. Sống với cuộc đời bằng trái tim từ bi, yêu thương mọi người, mọi loài, luôn sống hạnh phúc trọn vẹn trong hiện tại. Làm được việc này là ông đã có một sinh mệnh mới. Đó là sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức. Thân huyết nhục của chúng ta còn có khí số nhất định, song còn sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức không bị số mệnh trói buộc, có thể cảm đến thiên lý. Thiên Thái Giáp trong "Kinh Thư" nói:" Trời giáng xuống tai họa còn có thể tránh; tự mình gây ra tai họa thì không thể tránh, ắt phải chịu khổ".
 "Kinh Thi" cũng nói:" Người ta phải thương xét nghĩ đến hành vi của mình có hợp với đạo trời hay không? Nếu hợp đạo trời thì phúc báo không cầu cũng tự nhiên đến". Cho nên phúc hay họa đều là do mình. Thiên lý hay Đạo trời được nói đến ở đây chính là luật nhân quả.
  Khổng tiên sinh tính số cho ông bảo không có công danh, lại thêm không con thừa tự. Tuy là bảo số trới định sẵn, song vẫn có thể cải đổi. Ông chỉ cần mở rộng lòng nhân nghĩa đạo đức sẵn có, gắng sức làm lành, tích chứa âm đức. Đó là ông tự mình tạo ra phúc báo cho mình, người khác muốn cướp giật cũng không được làm sao mà không được hưởng phúc?
  "Kinh dịch" cũng vì những người giữ lòng nhân đức mà tính trước nên đi hướng nào sẽ kiết tường, tránh được những việc hung hiểm, những người hung hiểm, những chỗ hung hiểm.
  Nếu nói vận mệnh nhất định không thể thay đổi thì làm sao có thể đến chỗ kiết tường, tránh nơi hung hiểm? Chương mở đầu của " Kinh dịch" đã nói:" Gia đình nào hành thiện, ắt sẽ dư nhiều phúc báo, để lại cho con cháu". Đạo lý này ông thực sự có tin không?
  Cha tin lời Vân Cốc thiền sư, đành lễ tạ ơn và theo lời chỉ giáo. Cha đồng thời đem những sai lầm tội lỗi lúc trước, không luận là lớn nhỏ nặng nhẹ, ra trước bàn thờ Phật thành tâm sám hối. Cha cũng làm một bài kệ, trước hết tỏ lòng nguyện cầu có được công danh, kế đó phát thệ nguyện làm ba ngàn việc thiện để báo đáp ân nghĩa của trời đất và công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.
  Vân Cốc thiền sư nghe cha lập thệ làm ba ngàn việc thiện, liền đưa cho xem quyển sổ ghi lại việc tội hay phúc. Ngài dạy phải làm theo những lời dặn trong đó. Phàm những việc làm của mình, không luận là thiện hay ác, mỗi ngày đều phải ghi vào quyển sổ đó. Việc thiện thì ghi vào phần phúc, còn việc ác thì ghi vào phần tội.
  Song việc ác phải xem là lớn hay nhỏ, có thể dùng phần việc thiện đã ghi để giảm trừ. Ngài còn dạy phải trì chú Chuẩn Đề, nhờ sức gia trì của chư Phật để giúp nguyện ước sớm thành tựu.
  Như vậy vận mệnh là tự mình tạo lấy. Nếu phân tích một cách tỉ mỉ để giảng thì dù giàu hay nghèo cũng không khác, đều phải làm theo đạo lý lập mệnh này. Khi giàu không thể cậy tiền cậy thế hống hách, hiếp đáp người khác mà phải khiêm cung, chia sẽ giúp đỡ mọi người. Như vậy, vận mệnh phú quý càng thêm phú quý và có thể bảo tồn lâu dài. Khi nghèo vẫn giữ khí tiết, không làm việc trái lương tâm. Dù nghèo vẫn an phận thủ thường, làm một người lương thiện. Như vậy mới có thể chuyển đổi vận mệnh bần cùng thành vận mệnh phú quý. Cho nên, dù giàu hay nghèo đều phải bỏ ác làm lành, gieo trồng ruộng phúc.
  Đoản mệnh hay trường thọ cũng vậy. Không nên cho rằng mình vắn số, sống chẳng bao lâu mà tranh thủ hưởng thụ, mặc tình làm ác, vào đường đọa lạc. Nên biết, vì nghiệp báo mình phải đoản mệnh, nên gắng sức làm lành, hy vọng đời sau sẽ được trường thọ. Như vậy có thể đời này được sống lâu thêm.
  Còn người trường thọ cũng không nên ỷ lại mà mặc sức tạo ác, gian dối phạm pháp, đắm mê tửu sắc. Nên biết trường thọ có được không dễ, phải trân trọng, làm thêm điều lành để giữ gìn phúc báo trường thọ này. Hiểu được đạo lý này mới có thể cải đổi đoản mệnh thành trường thọ; mệnh trường thọ càng thêm dài lâu, càng thêm khỏe mạnh.
  Người ta sống trên đời, việc hệ trọng nhất là sống và chết. Nếu có thể xem đoản mệnh và trường thọ không khác thì tất cả thuận cảnh,nghịch cảnh,giàu sang, nghèo hèn đều bao quát trong đó.
 Mạnh Tử nói đến cái học về lập mệnh chỉ bàn đến đoản mệnh và trường thọ mà không nói đến giàu và nghèo, thành đạt và khốn cùng cũng chính vì lý do này.
 Vân Cốc thiền sư lại bảo:
- Mạnh Tử có câu" Tu thân để đợi đó" là bảo: tự mình phải luôn luôn tu tâm dưỡng đức, không nên làm ác gây tội dù là mảy may. Còn như vận mệnh có cải đổi được hay không, đó là tùy thuộc việc tích đức nhiều ít, hợp hay không hợp đạo trời.
  Nói đến chữ" tu thân" là bảo hướng vào trong tâm sửa đổi những sai lầm, tội lỗi của chúng ta, người tu chỉ nghĩ điều lành, nói lời lành, làm việc lành, thường tự xét lỗi mình, không bàn lỗi người khác. Còn bảo " đợi" là chỉ mọi người phải đợi đến công phu tu thân sâu dày, phúc báo vun đắp đầy đủ, tội nghiệp tương ứng tiêu trừ, thì vận mệnh sẽ tự nhiên chuyển đổi, trở lên tốt đẹp. Không nên có tư tưởng mong muốn những gì vượt quá phận mình, để cho vọng tâm, dục tưởng làm mờ ám tâm trí, mà phải giữ tâm thanh tịnh, buông xuống mọi vọng niệm sinh diệt. Tâm như tấm gương, thấy rõ ràng tất cả nhưng không bị ngoại cảnh tác động, thấy cảnh mà lìa khỏi cảnh, thấy tướng mà lìa khỏi tướng, trong chỗ nghĩ tưởng mà không nghĩ tưởng, thấy tất cả các pháp mà tâm không đắm nhiễm. Đến trình độ này sẽ tìm lại được tự tính thanh tịnh, trong sáng có sẵn trong mỗi con người và ch ỉ dùng tâm này là đủ thành Phật. Song công phu này phải kinh qua thực hành mới lĩnh hội được.
 Cha ban đầu tên hiệu là Học Hải, song từ ngày đó trở đi đổi hiệu là Liễu Phàm. Bởi vì sau khi hiểu rõ đạo lý lập mệnh, cha không muốn sống như kẻ phàm phu mà phát nguyện quét sạch kiến giải phàm phu, nên gọi là Liễu Phàm.
  Từ đó về sau, cả ngày cha đều chánh niệm tỉnh giác, cẩn thận từ lời nói, việc làm cho đến ý nghĩ. Cha cảm thấy mình như thay đổi hẳn, trở thành con người khác.
  Lúc trước cha sống tùy tiện, hồ đồ, không biết kiềm chế. Đến nay trở nên cẩn thận, cung kính, cảnh giác những điều bất thiện.
 Cho dù trong nhà, buổi tối không có ai đi nữa, cha cũng không dám tùy tiện vì biết có trời đất quỷ thần xét soi. Gặp người ganh ghét, hủy báng, cha vẫn an nhiên, không chấp nhất, tranh luận với họ.
  Năm thứ hai sau khi tham kiến Vân Cốc thiền sư, cha đến bộ Lễ thi cử. Khổng tiên sinh đoán số cha sẽ đậu hạng ba, không ngờ lại đậu hạng nhất. Lời của Khổng tiên sinh bắt đầu hết linh nghiệm. Khổng tiên sinh không nói cha sẽ đậu cử nhân, song trong kỳ thi Hương mùa thu, cha lại thi đậu cử nhân. Đây là do làm phúc tích đức khiến số mệnh thay đổi. Vân Cốc thiền sư bảo:"Vận mệnh có thể thay đổi". Lời nói này đến nay đã được chứng nghiệm, khiến cha càng thêm tin tưởng.
  Cha tuy sửa đổi lỗi lầm khá nhiều song khi gặp việc nên làm vẫn không thể chuyên tâm nhất ý làm. Cho dù làm vẫn còn miễn cưỡng, không được tự nhiên. Cha tự xét lại mình thấy lỗi lầm vẫn còn rất nhiều.
  Ví dụ như thấy việc thiện, tuy chịu làm, song không mạnh dạn nỗ lực làm. Hoặc là gặp lúc cứu người, trong lòng vẫn còn chần chừ, do dự, không kiên quyết thực hiện. Việc thiện tuy có làm được song lại hay nói những lời lầm lỗi. Khi tỉnh táo còn có thể tự chủ, song khi say rượu lại phóng túng, làm càn. Cha tuy làm lành có tích chứa chút công đức, song lỗi lầm vẫn còn rất nhiều. Nếu lấy công đức để trừ đi lỗi lầm e còn chưa đủ. Thời giờ chỉ luống uổng đi qua.
 Từ năm Kỷ Tị nghe lời khai thị của Vân Cốc thiền sư, cha phát nguyện làm ba ngàn việc thiện, đến năm Kỷ Mão, đã hơn mười năm mới hoàn thành ba ngàn việc thiện này.
  Lúc đó, Cha vừa cùng với Lý Tiệm Am tiên sinh từ Quan ngoại trở về Quan nội, chưa kịp đem ba ngàn việc thiện này ra hồi hướng. Đến năm Canh Thìn, cha trở về Phương Nam, mới thỉnh hai vị đại lão Hòa thượng đức độ là ngài Tính Không và Tuệ Không, mượn thiền đường Đông Tháp để hoàn thành tâm nguyện hồi hướng này. Lúc đó, cha lại khởi lên tâm nguyện cầu sinh con trai, và phát đại nguyện làm ba ngàn việc thiện lớn. Đến năm Canh Tị sinh ra con, đặt tên là Thiên Khải.
  Cha mỗi khi làm được một việc thiện đều ghi lại. Mẹ con không biết viết chữ, mỗi khi làm được một việc lành, như cho người nghèo cơm ăn, hay phóng sinh... đều lấy bút lông ngỗng, in một khuyên tròn màu đỏ lên lịch. Có lúc một ngày in cả mười mấy dấu đỏ lên lịch, đại ý ngày đó làm được mười mấy việc thiện.
 Như thế mãi đến tháng tám năm Quý Mùi mới hoàn thành ba ngàn điều thiện đúng như nguyện. Cha lại thỉnh các vị như Hòa thượng Tính Không... về nhà làm lễ hồi hướng. Đến tháng chín năm đó, cha lại khởi lên lời nguyện thi đậu Tiến sĩ và phát nguyện làm một vạn điều thiện để hồi hướng. Đến năm Bính Tuất, lại thi đậu Tiến sĩ. Bộ Lại bổ cho cha làm chức Huyện trưởng huyện Bảo Để đương khuyết. Lúc cha làm huyện trưởng huyện Bảo Để, có chuẩn bị một quyển sổ kẻ ô để trống. Quyển sổ này cha gọi nó là" Sổ tay trị tâm". Nói trị tâm là e mình khởi lên tà niệm hay ác niệm, dùng phương tiện này để đối trị.
 Mỗi ngày thức dậy vào lúc sáng sớm, lúc thăng đường xét xử, cha đều cho người để quyển sổ trị tâm này trên bàn làm việc. Mỗi ngày, việc lành hay việc ác dù rất nhỏ cũng ghi vào đó. Bà nội thấy cha làm việc thiện không nhiều, chau mày bảo:
- Mẹ lúc trước ở nhà giúp con làm việc thiện cho nên lời nguyện ba ngàn việc thiện có thể hoàn thành. Nay con phát nguyện làm mười ngàn việc thiện, trong nha môn thực khó mà thực hiện được, biết đến bao giờ mới làm xong đây?
  Sau đó, vào một đêm, cha bỗng nằm mơ thấy một vị thiện thần xuất hiện. Cha bèn đem việc khó mà hoàn tất mười ngàn việc thiện này thưa lại với thiện thần. Thiện thần bảo:
- Chỉ một việc ông làm Huyện trưởng giảm thuế ruộng đất cho dân là đủ để bù vào mười ngàn việc thiện.
 Thì ra, ruộng của huyện Bảo Để mỗi mẫu thu thuế là hai đồng ba hào bảy xu. Cha thấy đúng là nhân dân chịu thuế quá nặng nên xin giảm thuế tất cả số ruộng trong huyện, mỗi mẫu chỉ đóng thuế một đồng bốn hào sáu xu. Cha cảm thấy thật là lạ, tại sao việc này thiện thần lại biết được. Vả lại cũng nghi ngờ, sao việc này có thể đủ bù bù vào mười ngàn việc thiện?
  Đúng lúc đó có thiền sư Huyễn Dư từ núi Ngũ Đại đến huyện Bảo Để. Cha thưa lại chuyện trong mộng với thiền sư và hỏi có tin được chuyện này không. Huyễn Dư thiền sư đáp:
- Làm việc thiện phải có tâm chân thành khẩn thiết, không thể giả dối qua loa hoặc có tâm cầu báo đáp. Như vậy cho dù có một việc thiện cũng có thể bằng mười ngàn việc thiện. Huống chi ông giảm thuế cho toàn huyện, nông dân toàn huyện đều hưởng được ân huệ này. Cả ngàn vạn người nhờ đó mà giảm đi nỗi khổ vì thuế má nặng nề, đó thực là phúc báo to lớn.
  Cha nghe xong lời dạy của thiền sư, liền đem tiền bạc bổng lộc của mình ra, nhờ thiền sư cúng trai tăng mười ngàn vị trên núi Ngũ đài và xin hồi hướng.
  Khổng tiên sinh tính số mạng cho cha bảo cha sẽ mất năm năm mươi ba tuổi. Cha tuy không cầu trời cho sống thọ song khi cha tuổi năm ba lại không có chút đau bệnh gì. Năm nay cha đã sáu mươi chín tuổi rồi." Kinh Thư" nói:" Mệnh con người không có nhất định, đều do tự mình tạo". Những lời này không sai chút nào. Cha do đó mới biết, phàm nói đến họa phúc đều do tự mình tạo ra. Đó là lời của thánh hiền. Còn như bảo họa phúc do trời chủ định, đó là lời nói của kẻ phàm phu.
  Vận mệnh của Viên Thiên Khải con không biết rồi sẽ như thế nào. Song cho dù là vinh hoa phú quý, con cũng phải giữ tâm như lúc thất chí nghèo hèn. Cho dù gặp may mắn tốt đẹp, con cũng phải giữ lòng như lúc trắc trở khó khăn. Cho dù trước mắt có dư ăn dư mặc, con cũng phải cần kiệm như lúc thiếu thốn nghèo hèn. Cho dù được người ta yêu thích., kính trọng, con cũng phải luôn khiêm tốn, cẩn trọng. Cho dù gia thế có danh vọng đến đâu, con cũng phải thấy mình thấp kém. Cho dù học vấn có cao thâm bao nhiêu, con phải thấy mình còn thô thiển.
  Cách sống sâu sắc này là từ phản diện để nhìn vào vấn đề. Nếu biết khiêm cung như vậy, đạo đức dần dần nâng cao, phúc báo cũng tự nhiên tăng trưởng.
 Xa thì con nên truyền nối và mở rộng công đức của tổ tiên; còn gần thì phải biết hiếu kính cha mẹ. Trên thì con nên báo đáp ân huệ của trời đất; còn dưới thì phải tạo dựng hạnh phúc cho gia đình. Ngoài thì con nên cứu tế cấp nạn cho người nghèo khổ, bệnh tật, hoạn nạn; trong thì con phải luôn đề phòng niệm tưởng tà ác.
 Sáu cách trên là từ chánh diện để khẳng định vấn đề. Nếu con thường tự xét lại mình để tìm những sai lầm, nhất định sẽ trở thành bậc chính nhân quân tử.
  Người ta mỗi ngày cần phải tự kiểm điểm lỗi lầm của mình mới có thể sửa đổi mỗi ngày. Bằng không, cứ ngỡ là mình không có lỗi lầm, không chịu tu sửa, không làm sao tiến bộ được. Người tài giỏi thông minh trên thế gian không ít, song phần lớn lại không biết dụng công tu dưỡng đạo đức, không biết dụng công xây dựng vận mệnh tốt đẹp, đều chỉ vì thói lần nữa qua ngày, đến đâu hay đến đó, không có chí phấn đấu cầu tiến mới làm lỡ cả cuộc đời của họ.
 Những lời Vân Cốc thiền sư dạy về đạo lý lập mệnh thật là tinh thâm nhất, chân chính nhất. Cha mong con đọc và suy nghĩ kỹ, lại phải tận tâm tận lực thực hành, quyết không để ngày tháng quý báu trôi qua vô ích.
Chương hai: Sửa đổi lỗi lầm
  Người ta không phải mới sinh ra đã là Thánh là Hiền nên làm sao tránh được gây tạo lỗi lầm? Khổng Tử nói:" Có lỗi lầm không sợ sửa lỗi, là việc lành không gì lớn hơn". Cho nên, Liễu Phàm tiên sinh sau khi giảng đạo lý lập mệnh xong lại bàn đến phương pháp sửa lỗi. Ông trình bày mọi cách tường tận để dạy con mình là Viên Thiên Khải. Lỗi lầm nhỏ còn phải sửa đổi, huống chi là tội ác lớn, đương nhiên quyết không thể phạm.
  Vào thời Xuân Thu, các quan lớn của các nước thường đoán việc kiết hung họa phúc của một người nào đó thông qua ngôn ngữ hành vi của họ và kết quả rất linh nghiệm. Điều này có thể thấy được qua sách "Tả Truyện" và" Quốc Ngữ". Phàm những điềm báo kiết tường hay hung hiểm đều do mầm mống trong tâm phản ứng ra ngoài.
Những điềm kiết hung này còn thể hiện qua của chỉ của người đó nữa. Nếu một người nhân hậu, cử chỉ của họ sẽ chững chạc. Còn kẻ bạc ác thì cử chỉ sẽ tùy tiện.
 Người sống nhân hậu thì thường được phúc, kẻ bạc ác nhất định sẽ gặp họa. Người bình thường thiếu hiểu biết, không đủ trí tuệ để xét thấy việc này nên bảo họa phúc không nhất định, không sao biết trước được.
  Một người có thể sống hết sức thành thực, không một chút giả dối thì tâm họ khế hợp đạo trời. Do đó, nếu đem tâm chân thành ra đối đãi với người thì phúc báo tự nhiên sẽ đến. Cho nên, xét một người nào đó, chỉ cần nhìn thấy họ toàn làm việc thiện thì biết trước rằng phúc của họ sắp đến. Trái lại, xét một người mà thấy hành vi của họ toàn làm điều ác thì biết rằng họ sắp gặp họa.
  Người ta muốn tránh họa được phúc phải tự mình sửa đổi lỗi trước khi làm thiện. Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm cần có:
  Thứ nhất là phải có lòng sỉ ( lòng xấu hổ)
  Chúng ta nên suy nghĩ: Thánh hiền với ta đều do cha mẹ sinh ra nhưng để lại tiếng thơm muôn đời, làm gương sáng cho hậu thế. Còn chúng ta lại uổng phí một đời, hàng ngày chìm đắm trong vòng danh lợi, có khi còn làm việc bất nghĩa, tưởng là mọi người không biết nên chẳng lấy làm thẹn.
  Đó là vì chúng ta quá đam mê hưởng thụ, bị hoàn cảnh vật dục bên ngoài chi phối, lén làm những việc không nên làm. Càng ngày chúng ta càng trầm luân trong bể dục, không khác gì cầm thú, mà tự mình chẳng biết chẳng hay.
 Mạnh tử nói: " Việc lớn nhất, quan trọng nhất của một người không gì hơn chữ sỉ". Người có lòng sỉ có thể trở thành thánh hiền, không có lòng sỉ dần dần trở lên cầm thú.
 Thứ hai là phải có lòng kính sợ
 Ta nên biết rằng, trên có trời đất, giữa có quỷ thần. Hành động mờ ám của ta tuy kín đáo, nhưng đều có trời đất quỷ thần soi xét. Nếu ta gây tạo tội nặng sẽ rước lấy tai họa, gây tạo tội nhẹ sẽ tổn phúc giảm đức. Chúng ta có thể giấu được người trần làm điều sai trái, qua mặt pháp luật, nhưng không sao qua mắt được chư thiên. Việc ác của chúng ta đối với họ như soi kính, đều hiện ra rõ ràng không sót. Chúng ta khởi tâm động niệm như thế nào, các vị ấy đều biết rõ. Cho nên, mình biết rõ tâm niệm hành vi của mình như thế nào, chư thiên cũng biết rõ như vậy.
 Nếu chẳng may hành vi xấu xa của chúng ta bị người khác biết được thì chẳng phải mình mất hết giá trị, bị người ta xem thường phỉ nhổ hay sao?
  Nhưng đối với người biết ăn năn hối cải, cho dù phạm tội lớn đến đâu, đều có thể sám hối. Thuở xưa có người cả đời làm ác, đến khi lâm chung tỉnh ngộ ăn năn, khởi lên niệm lành rất lớn, liền được an ổn vãng sinh.
   Tuy nói có lỗi chỉ cần biết ăn năn cải đổi là được, song tuyệt đối không được vì thế mà ỷ lại cho rằng thường phạm lỗi không sao. Người như thế có tâm phạm lỗi, tội càng sâu nặng hơn.
  Trong thế gian bất tịnh này, vạn vật đều huyễn hóa vô thường, tấm thân huyết nhục này nay còn mai mất không sao liệu trước được. Chẳng phải một hơi thở ra mà không hít vào là đã qua đời khác sao? Đến lúc đó, có muốn sửa đổi lỗi lầm cũng không sao kịp nữa. Khi cái chết đến, mọi thứ đều bỏ lại, chỉ có nghiệp tooij đi theo chúng ta mà thôi.
  Do đó, kẻ làm ác báo ứng ở dương gian là phải chịu tiếng xấu trăm ngàn năm, cho dù có con hiếu cháu hiền cũng không sao rửa sạch được vết nhơ này. Còn quả báo đời sau là phải trầm luân trong địa ngục, chịu vô lượng vô biên khổ não, đọa đày trong ngàn muôn ức kiếp. Lúc đó dù gặp được Phật, Bồ tát, thánh hiền, cũng không cách nào cứu chúng ta được. Như vậy không đáng sợ sao?
 Thứ ba phải có lòng can đảm
  Người có lỗi mà không sửa vì lần nữa qua ngày nên đã sai rồi lại càng sai thêm. Khi biết mình có lỗi phải có lòng can đảm để sửa, không thể trì hoãn. Không nên ngày nay lại hẹn đến mai, mai lại hẹn đến mốt, cứ thế kéo dài, lần nữa đến chết. Lỗi lầm nhỏ hãy xem như gai đâm vào xương thịt, để lâu một ngày là nhức nhối một ngày, nên phải gấp rút nhổ ra. Lỗi lầm lớn hãy xem như rắn độc cắn phải, để chậm một giây là nguy hiểm đến tính mạng một giây. Như quẻ Ích trong " Kinh dịch" nói:" Gió thổi sấm nổ, vạn vật sinh trưởng". Đây là dụ cho người đổi ác làm lành, được ích lợi lớn như vạn vật nhờ mưa thuận gió hòa mà sinh trưởng tốt tươi.
  Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm, nếu có đầy đủ lòng xấu hổ, lòng kính sợ, lòng can đảm thì có thể lập tức sửa được lỗi lầm; như lớp băng mỏng mùa xuân gặp phải ánh dương quang, lo gì không tan rã!
 Song sửa đổi lỗi lầm có ba góc độ dụng công.Một là từ trên thực tế để sửa đổi. Hai là từ trên đạo lý để sửa đổi. Ba là từ trên tâm niệm để sửa đổi. Do ba cách dụng công khác nhau, nên kết quả cũng khác nhau:
* Từ trên thực tế sửa đổi lỗi lầm
 Ví dụ như hôm qua sát sinh, hôm nay chấm dứt không sát sinh nữa. Hôm trước nổi giận mắng người, hôm nay bỏ qua không giận nữa. Đây là phương pháp chấm dứt lỗi lầm không tái phạm, bằng cách sửa đổi lỗi lầm khi sự việc đã phát sinh. Song sửa đổi như vậy là miễn cưỡng mà làm, tuy qua được một lúc song mầm mống lỗi lầm vẫn còn trong tâm. Chỉ cần có cơ hội thích hợp là nó lại tái phát, đôi khi còn mãnh liệt hơn nữa. Người ta bảo tức nước vỡ bờ là vậy. Nên đây không phải là phương pháp sửa lỗi lầm một cách triệt để.
* Dựa trên đạo lý cải đổi lỗi lầm
 Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm, trước khi ngăn giữ không làm một điều sai quấy nào đó, phải hiểu rõ đạo lý tại sao ta không nên làm. Ví dụ như một người đối với lỗi lầm của việc sát sinh, trước hết anh ta phải nghĩ rằng: Đức hiếu sinh là đạo lý tự nhiên. Phàm là loài có sinh mệnh ai lại chẳng tham sống sợ chết. Thế mà ta lại giết loài vật để nuôi thân mình, thử hỏi trong tâm có yên ổn không? Những con vật mà ta cắt cổ, nhổ lông, lột da, xào nấu..., chúng phải chịu bao đau đớn khổ sở lúc lâm chung, như vậy có phải tội lỗi lắm không? Ăn uống trên sự tước đoạt sinh mệnh, gây tạo khổ đau cho chúng sinh, song dù miếng ngon đến đâu một khi đã ăn rồi thì các thứ ấy đều thành cặn bã, chẳng còn lại thứ gì. Nếu biết rằng người ăn rau đậu, ăn chay cũng có thể no, cần chi phải nhất định làm tổn hại sinh mạng khác ( tạo tội sát sinh) mà bị giảm thiểu phúc báo của chính mình.
 Lại suy nghĩ rằng: Làm người ai cũng muốn sống trong sự an vui hạnh phúc, không thích kẻ nào quấy rầy hoặc dùng bạo lực để gây thương tổn đến bản thân. Đó cũng chỉ là mong ước của mọi loài động vật. Đúng! Chỉ có thế thôi, an vui hạnh phúc và không bị ai quấy rầy sát hại. Tuy nhiên với sức mạnh và sự bất công của con người nói chung, lại tìm sự an vui hạnh phúc trên những đau khổ đọa đầy của kẻ khác, thỏa lòng khoái khẩu trước những cái chết thê thảm của loài khác. Nếu đứng về phương diện bình đẳng giữa sự sống với nhau, thì hành động ấy quả thật là " cá lớn nuốt cá bé" hoặc " mạnh được yếu thua". Chúng ta cứ tưởng tượng một con gà đang vùng vẫy trước sức mạnh của con người. Họ đè cánh chúng, trói chân lại, nhổ lông, rồi kê dao vào cổ cứa.. cứa.. ôi chao ghê quá!!! máu chảy ra. Thử hỏi con gà ấy có đau khổ, oán thù kẻ cắt cổ nó không? Rồi ta hãy xét qua trường hợp này: Một gia đình nọ đang sống êm ấm, an vui hạnh phúc. Bỗng một hôm có toán cướp với vũ khí trong tay xông vào nhà cướp của và bắt con gái hãm hiếp. Người cha thấy vậy quá đau lòng nhào vào can ngăn và bị chúng dùng dao đâm chết. Trước thảm cảnh này vợ và con sẽ nghĩ gì? Có căm tức, oán thù bọn cướp ấy không? Nếu có thì làm gì bọn cướp được đây hay cũng đành cắn răng nhẫn chịu trước lưỡi dao, họng súng kia? Qua hai trường hợp ấy chúng ta thấy chỉ vì sức yếu nên con vật chịu cắt cổ trước sức mạnh của loài người giống như con người bất lực dưới sức mạnh của tập thể uy hiếp, họng súng dọa nạt. Thế nhưng cả hai trường hợp ấy đâu phải kẻ cô yếu không oán hờn mong ngày báo thù?Nếu xét về nhân quả, không sớm thì muộn hễ gây ác nhân sẽ gặp ác quả. " Kinh pháp cú" Phật dạy: " Người nào cầu hạnh phúc cho mình mà dùng dao gậy phá hoại hạnh phúc kẻ khác thì sẽ không bao giờ được hạnh phúc".
   Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh điều ấy:
  Ở Thượng Hải có người giàu có họ Bành. Ông nghiên cứu được món ăn rất hấp dẫn, mệnh danh là món " quán miết giáp" ( rót nước vào mai ba ba). Ông chế một chiếc nồi đất, trên vung có đục một lỗ nhỏ vừa bằng đầu con ba ba chui lọt. Rồi cho ba ba vào nồi nước đem đặt lên bếp đun. Dĩ nhiên, một lúc sau nước nóng ba ba chịu không nổi phải tìm lối thoát và nó chỉ còn một lối thoát duy nhất là cho cổ chui ra khỏi lỗ vung nồi, nhưng thân mình thì đâu dễ gì thoát khỏi. Khi đó ba ba chỉ còn biết há miệng chờ chết, thế là họ Bành đàng hoàng ngồi đổ gia vị vào miệng ba ba rồi bịt kín nồi hầm nhừ thành một món ăn mà họ Bành cho là ngon nhất thế gian... Họ Bành thường ăn như vậy và thường làm cả trăm con để đãi khách. Thế nhưng " ác giả thì ác báo". Một hôm nhà họ Bành xảy ra hỏa hoạn, lúc ấy họ Bành đang say sưa trong giấc mộng sau một đại tiệc toàn là món miết giáp. Khi phát hiện ra hỏa hoạn, họ Bành tỉnh giấc thì đã muộn, lửa cháy xung quanh. Luống cuống, họ Bành tìm không ra chìa khóa cửa. Vì giàu có nên ông rất sợ bị bắt cóc và trộm cướp cho nên lúc nào cũng ở trên phòng kiên cố trên lầu, cửa sắt bao bọc vững chắc. Lửa cháy tứ tung kéo đến gần kề. Cùng đường, họ Bành thấy lối thoát duy nhất là chiếc cửa sổ, ông liền chui đầu qua song sắt, nhưng khốn nỗi cái thân hình to béo với cái bụng không thể lọt qua. Lúc ấy xe cứu hỏa tới, vì đầy khói nên không thấy họ Bành, cứ phun nước vào mặt mũi làm ông chết ngạt, đồng thời trong phòng lửa cháy dần dần thui sống ông trông thật thê thảm. Nhìn cảnh ấy ai cũng liên tưởng tới món miết giáp. Trước kia ông hành hạ những con ba ba vô tội hết sức tàn ác, thì bây giờ ông cũng bị chết y hệt như những con ba ba nạn nhân của ông. Thật là luật nhân quả lúc nào cũng cân xứng.
 Qua câu chuyện trên ta thấy, lúc thọ hưởng và thỏa mãn khẩu vị trên những đau khổ , quằn quại, rên xiết của động vật khác, ta tưởng là thú lắm, sung sướng lắm, bổ béo lắm. Nhưng khi chúng ta lâm vào hoàn cảnh ấy ta mới thông cảm được thế nào là nước sôi lửa đốt. Chừng đó ta có oán hận ngọn lửa tàn ác kia sao lại dã man " thui" mình không một chút thương tiếc như thế? Nó vẫn cứ mặc nhiên thiêu đốt giống như họ Bành" rung đùi" lạnh lùng thản nhiên ngồi nhìn con ba ba thò đầu trong nồi nước sôi vậy. Quả là công lý mọi chúng sinh đều bình đẳng.
  Đối với việc gian tham trộm cắp ta phải biết rằng dù là vật rất nhỏ nếu không xin cũng phải trả. Câu chuyện sau đây sẽ cho ta thấy rõ thế nào là vay trả:
  Ngày xưa có một phú gia nọ rất nhiều của. Mọi người trong xóm đều biết danh nhà cự phú này. Ông có nuôi một con ngựa rất khôn, đặc biệt là nó biết nói tiếng người và có linh tính biết trước các việc sắp xảy ra. Một hôm nó bảo với ông chủ là:
- Tối nay sẽ có một toán cướp gồm mười tám tên đến đây, vậy ông hãy tránh đi nơi khác.
  Ông chủ không chịu đi và nói rằng:
- Nếu quả thật bọn cướp có đến đây thì tôi sẽ đem vàng bạc cho chúng là xong, cần gì phải đi đâu cho cực.
 Con ngựa bèn đáp:
- Nếu ông không đi nơi khác, e rằng chúng đến đây cướp của còn giết ông nữa thì sao? Tốt hơn là ông hãy lấy vàng chia ra mười tám phần rồi chốn đi nơi khác, một mình tôi ở nhà định liệu.
  Ông chủ nghe xong cho là phải, lấy vàng chia ra mười tám phần để sẵn và gia đình kéo nhau đi chốn nơi khác. Tối hôm đó, mười tám tên cướp gõ cửa, con ngựa liền trả lời:
- Ai đó? Cứ việc đẩy cửa vào!
  Sau khi nghe xong bọn cướp xông vào nhà chia nhau lục soát khắp nơi mà không thấy một ai, chúng mới cất tiếng hỏi thì con ngựa trả lời:
 - Chính tôi là ngựa đây, tôi biết các ông tối nay đến đây nên tôi đã dặn chủ nhà chia sẵn mười tám phần vàng cho các ông rồi, còn chủ nhà đã tránh đi nơi khác.
 Nghe xong, tất cả bọn cướp rất ngạc nhiên và hỏi ngựa tại sao biết nói tiếng người và biết hôm nay chúng đến cướp nhà này? Con ngựa đáp:
 - Tôi là người tu hành trong nhiều kiếp trước, trai giới rất nghiêm minh. Chỉ vì một hôm đi hành đạo phương xa, trong lúc băng qua một cánh đồng, vì bụng đói thấy nơi đám lúa có một cây trổ bông duy nhất, tôi bèn xuống ngắt lấy ăn. Vì không xin chủ nên kiếp này phải bị làm thân ngựa để đền trả lại cho chủ nhân đây.
 Sau khi nghe con ngựa kể xong, cả bọn cướp kinh hãi. Suy nghĩ về việc làm bất chính của mình từ trước đến nay. Nhà sư chỉ vì không xin một bông lúa mà phải bị đọa làm thân ngựa để đền trả như thế, huống chi cả đời chúng toàn cướp của hại người tránh sao cho khỏi quả báo. Từ đó, họ sám hối ăn năn quay trở về con đường lương thiện, bỏ nghề trộm cướp, tinh tấn tu hành về sau trở thành mười tám vị La Hán.
 Cổ nhân nói:"Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ" nghĩa là : Người không có nghĩa thì chẳng nên thân, đồ vật phi nghĩa chẳng nên lấy giữ. Vì vật phi nghĩa là của trộm cắp, của cờ bạc, của rơi rớt ngoài đường, của hối lộ móc ngoặc, của lừa gạt dối trá người... Những thứ này không phải mồ hôi công sức mình tạo ra nên khó thể bền vững lâu dài với mình được.
 Lại nghĩ rằng: Trên đời này không có ai dám cho rằng mình là hoàn hảo, không chút lỗi lầm. Một người cho rằng mình là hoàn hảo mới chính là kẻ thiếu hiểu biết nhất. Trên đời cũng không có đạo lý nào dạy chúng ta oán hận người xung quanh. Người càng có học vấn thì càng phải khiêm tốn, nghiêm khắc với mình, khoan dung với người, sao lại oán hận người khác?
  Nếu như tính tình của ta trước kia hay nóng giận thù oán người này người kia nên suy nghĩ rằng: Ai cũng có điều tốt, ai cũng có chỗ xấu. Khi gặp chỗ xấu của người, xét về tình lý, nên thương cho họ mà tha thứ chỗ xấu đó, vì chính họ cũng là nạn nhân, chịu khổ não bởi thói xấu bản thân. Nếu có người ngang ngược, vô lý mạo phạm đến ta thì lỗi đó ở học có dính dáng gì đến ta, vậy tại sao ta phải nổi giận?
  Một người làm việc không được vừa lòng đắc ý, đều do tâm của mình không tu dưỡng tốt, còn thiếu công đức, không đủ sức cảm động lòng người. Vì vậy phải tự xét lại mình, xem có chỗ nào có lỗi với người không?
  Người có thể suy xét được như vậy, dụng công sửa mình thì người khác phỉ báng sẽ trở thành sự rèn luyện, thành tựu nhân cách cho ta. Bằng những bài học phản diện, ta nên hoan hỉ tiếp nhận sự giáo huấn, phê bình của người khác, còn oán hận điều gì?
  Lại nữa, nghe người khác nói xấu mà ta không nổi giận, dù lời nói đó độc ác đến đâu, khác nào như đem lửa đốt trời, hư không vẫn rỗng rang, không có gì để cháy, lửa cuối cùng cũng tắt. Nếu ta nghe người khác hủy báng mà tìm cách biện hộ thì khác nào như tằm nhả tơ, tự trói buộc lấy mình. Đó là tự mình chuốc lấy khổ. Cho nên, nổi giận không những vô ích mà còn có hại.
  Đó là nói về hậu quả của nóng giận. Còn như những lỗi lầm khác, cũng nên y theo đạo lý này mà suy xét, thì tự nhiên sẽ không phạm phải lỗi lầm.
* Cải đổi lỗi lầm từ tâm
  Người ta gây tạo lỗi lầm vốn nhiều vô số song tất cả đều do tâm tạo. Những ý niệm lành, dữ, thiện, ác, ý nghĩ này, tư tưởng này, ý tưởng nọ hoặc những ý niệm tham sân si dấy khởi lên đều xuất phát từ cái ý ( ý căn) hay cái tâm. Cho nên cái Ý ( căn) là cái gốc và là đầu mối tạo nên những nghiệp lành, nghiệp dữ... nên chúng ta mới nói nó chính là kẻ chỉ huy và cũng là thủ phạm. Còn cái Thân và cái Miệng chỉ là kẻ bị sai khiến bởi cái Ý, nên cả hai chỉ là tòng phạm. Nếu tự trong tâm trừ ngay nguyên nhân sinh ra tội lỗi thì không có tạo ra bất cứ nghiệp gì. Như vậy lỗi lầm từ đâu mà sinh? Phàm người ta thường có nhiều lỗi lầm như tham đắm nữ sắc, danh tiếng, tiền của, hoặc hay nóng giận,...Chúng ta không cần tìm hiểu phương pháp để cải đổi từng lỗi lầm một mà chỉ cần nhất tâm nhất ý khởi lên niệm lành, làm việc vì lợi ích của mọi người, lúc nào cũng sống trong chánh niệm thì không có ý niệm tà ác nào xen khởi, làm ô nhiễm tâm ta được.
  Ví như mặt trời soi sáng giữa từng không, tất cả những hắc ám đều không chỗ dung thân. Đây chính là bí quyết tu tâm, sửa lỗi chân chính duy nhất. Phải biết tất cả lầm lỗi tội ác đều do một tâm này gây tạo nên chỉ cần ngay nơi tâm này sửa đổi lỗi lầm. Đây giống như trừ cây độc, phải đốn tận gốc, trốc tận rễ, mới không sợ mọc trở lại, mà đâu cần phải chặt từng nhánh, bẻ từng lá.
  Phương pháp cải đổi lỗi lầm cao minh nhất vẫn là tu tâm. Nếu biết tu tâm sẽ lập tức khiến tâm thanh tịnh. Vì tất cả sai lầm đều do tâm khởi niệm bất chính mà ra. Nếu biết tu tâm, chánh niệm tỉnh giác, khi tà niệm vừa khởi liền phát giác. Tà niệm ngay đó sẽ không còn, tâm trở lại thanh tịnh. Nếu ta không làm được như vậy, khi tà  niệm khởi lên phát giác muộn và không đủ sức giác chiếu để